Sàig̣n Ngày Ấy
Tùy bút của một cô nữ
sinh nhớ về Saigon yêu dấu năm xưa.
Trường Nữ
Trung Học Gia Long, Saigon
Năm 1954 – 60
Ngày ấy tôi c̣n bé lắm.
Lênh đênh trên chuyến tầu
cuối vào Nam
theo cha mẹ chứ chẳng biết ǵ.
Chuyến
đi êm đềm không ǵ đáng nói. Tôi
thấy nguời Pháp cũng đàng hoàng. Th́ đâu chả thế. Cũng có người
này người kia. Nguời hèn nhát, kẻ
can đảm. Người quá khích, kẻ trung dung. Nguời Pháp trên tầu tử tế. Họ
cho ăn uống đầy đủ. À mà tôi không hiểu tại sao họ phải tốn
đủ thứ để đưa nguời di cư vào Nam? Nếu họ cứ mặc kệ th́ số dân Bắc
có đến đuợc miền Nam dễ dàng không?
Đầu
tiên chúng tôi cặp bến Vũng Tầu. Rồi xe
đưa vào Saigon. Chúng
tôi ở tạm tại Nhà Hát sau này được sửa
thành Ṭa Quốc Hội. Mấy hôm sau th́
phân tứ tán. Chính phủ trợ cấp cho mỗi
đầu nguời là bao nhiêu đó, tôi không nhớ v́ quá bé.
Nơi
tôi ở đầu tiên là Cây Quéo. Đuờng Ngô
Tùng Châu. Gia đ́nh tôi là người Bắc
đầu tiên đến đây. Sau này đọc truyện
và biết con trai Bắc hay bị con trai nam uưnh và xỏ
xiên “Bắc kỳ ăn cá rô cây”…. Nhưng gia
đ́nh tôi hên. Nơi xóm nhỏ, người Nam thật
thà đôn hậu. Họ cư xử tử tế
với chúng tôi. Đôi khi tôi lẩn thẩn nghĩ,
hay v́ gia đ́nh tôi là nhà giáo? Tinh thần tôn sư trọng
đạo đă ăn sâu trong gịng máu dân
Việt? Họ rất tôn trọng và lễ
phép đối với cha mẹ tôi. Một điều
“thưa ông giáo”, hai điều “thưa bà giáo”…
Con đường
đến trường tiểu học thật dễ
thương. Ngày ấy chúng tôi đi bộ nhiều, chẳng
vù vù xe máy như bây giờ. Đi bộ đến trường thật vui.
Cứ tung tăng chân sáo, vừa đi vừa
hái hoa bắt buớm. Ôi sao ngày đó Saigon
nhiều hoa bướm thế! Hai bên đường những
hàng rào hoa dâm bụt đo đỏ xinh xinh. Nh́n vào trong, nhà
nào cũng có vườn, cây cối xum xuê. Bướm
bay la đà. Những con bướm đủ mầu
sắc nhưng bướm vàng nhiều nhất. Nếu
nh́n riêng th́ bướm vàng không đẹp nhưng khi bay
lượn giữa rừng lá xanh th́ đàn bướm vàng
thật duyên dáng. Chúng như một nét điểm xuyết
cho bức họa hoa lá… Tôi thích nh́n bướm
bay.Tôi thích ngắm hoa nở. Trường
học to vừa phải. Lớp học đủ ánh
sáng. Mỗi sáng thứ hai chào cờ. Đứng nghiêm và hát
quốc ca. Này công dân ơi, đứng lên đáp lời
sông núi… Ừ th́ thanh niên luôn được dạy
dỗ là “đáp lời sông núi”.
Chúng tôi được
học những bài công dân giáo dục đầu tiên và…
đă ăn sâu măi vào tiềm thức. Đủ biết các cụ nói uốn cây khi chúng
c̣n non là đúng. Tuổi ngây thơ coi những
lời thầy cô là khuôn vàng thuớc ngọc.
Không phá của công
Không xả rác ngoài đường
Phải nhường ghế cho người lớn tuổi,
phụ nữ có thai trên xe buưt
Phải dắt em bé hay cụ già qua đường
Phải ngả nón chào khi xe tang đi qua
Không gian lận. Nói dối là xấu xa…
Chúng tôi đă
được dậy như thế đó và chúng tôi đă
làm theo như thế đó. Ôi Saigon của
tôi ơi, bây giờ tôi đi giũa phố phường mà
lạc lơng vô cùng khi chỉ ḿnh tôi ngả nón chào nguời chết
hay chạy nép vào lề nhường cho xe
cấp cứu đi qua!
Rồi
những bài học thuộc ḷng. Rất giản dị dễ nhớ .
Công cha như núi Thái
Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chẩy
ra
Những buổi sáng
vừng hồng le lói chiếu
Trên non sông làng mạc ruộng đồng quê
Chúng tôi ngồi im lặng lắng tai
nghe
Tiếng thầy giảng khắp trong giờ quốc sử…
Sung sướng quá,
giờ cuối cùng đă điểm
Đàn chim non hớn hở dắt tay
về
Chín mươi ngày vui sướng ở đồng quê…
Cuộc sống sao
êm đềm và thanh b́nh quá! Không có những cướp bóc lớn
lao. Ăn cắp vặt
cũng không ghê gớm. Tôi c̣n nhớ phơi quần áo
trước nhà rất an toàn chẳng phải
trông chừng…
Tôi c̣n
nhớ ruộng miền Nam nhiều nơi không chia
bờ rơ rệt. Tôi c̣n nhớ cây trái Lái Thiêu không vạch
lối ngăn rào. T́nh hàng xóm là tất cả.
Khi chia rào, ngăn lối là xúc phạm. Tự người dân quê biết đâu là đất
là vườn của ḿnh. Vào vườn
Lái Thiêu cứ tha hồ ăn. Chỉ khi
mua về mới phải trả tiền. Ôi sao ngày ấy
người ta hiếu khách và cuộc sống thanh b́nh đẹp
đẽ quá! Có phải là một phần nhỏ
thiên đường nơi hạ giới chăng? Tôi nhớ nhiều về Lễ Quốc Khánh đầu
tiên năm 1956 th́ phải. Đúng là lễ
hội. Pháo hoa tưng bừng và
người người ra đường trong hớn hở
reo vui. Không chửi bới, không chà đạp, không giành
đuờng xem lễ… Sài G̣n bấy giờ
c̣n thênh thang lắm. Sài G̣n bấy giờ chưa
đông đúc bon chen…
Ngày ấy
các bà Bắc hay Trung đi chợ c̣n mặc áo dài. Lề
thói xưa c̣n ăn trong nếp ấy. Ra đường là
phải lịch sự. Khi lễ lạc th́ phải mặc
quần đen với áo dài chứ không được quần
trắng v́ như thế là thiếu lễ… Tôi c̣n nhớ một
gia đ́nh trung lưu là đă có thể thuê người làm.
Đa phần người làm là các cô gái miền Trung.
Đúng là quê hương em nghèo lắm ai ơi! Đất
khô cằn sỏi đá đă khiến bao cô gái quê vào miền
Nam giúp việc. Thuở ấy người miền Nam hay
dùng từ “ở đợ”, c̣n người Bắc gọi
là “người làm”. Các chị giúp việc thường rất
trung thành và lễ phép với chủ nhà. Các cô cậu con chủ
nhà cũng được tôn trọng. Bà chủ thường
ở nhà và chị phụ giúp v́ nhà nào cũng khá đông con
(viết lại câu này cho rơ ư hơn). Ban đầu th́ ba, bốn
và sau thành sáu. Tôi c̣n nhớ lương giáo sư đệ
nhị cấp tức dạy từ lớp đệ Thất
đến đệ Nhất của cha tôi là 5.200 đồng,
vợ được 1.200 đ. và mỗi con là 800 đ.
(không hạn chế số con). Tô phở khá ngon là năm
đồng. Coi như lương giáo sư là 1.040 tô phở.
Lương người giúp việc là 300 đồng.
Lương Bộ trưởng gấp 5 lần
lương giáo sư, vào khoảng 25.000 đồng. C̣n
lương Đại úy th́ bằng lương giáo sư.
Nếu bây giờ 7.000 đồng tô phở b́nh dân th́
lương của giáo viên cấp ba phải là 7.000.000
đ.
Hồi đó chúng tôi thi một năm hai kỳ gọi
là đệ nhất và đệ nhị lục cá nguyệt.
Đề thi hoàn toàn do giáo viên (cấp tiểu học) hay
giáo sư phụ trách ra đề. Hồi đó không có nạn
các giáo sư hay giáo viên kéo tṛ về nhà dậy kèm hay bán
đề thi. Đơn giản có lẽ v́ đồng
lương đă đủ sống nên họ không phải
bán rẻ lương tâm. Cuối năm lớp Nhất th́
chúng tôi phải thi bằng Tiểu Học. Sau đó thi vào
đệ Thất các lớp trường công. Ai rớt th́
học trường tư. Tất nhiên phải học giỏi
mới thi vào được những trường công danh
tiếng như Gia Long, Trưng Vương, Petrus Kư, Chu
Văn An. Những tháng ngày tiểu học với tôi là tung
tăng chân sáo, là chơi nhiều hơn học, là hái hoa bắt
bướm, là nhảy ḷ c̣, là chơi giải ranh, chơi ô
quan. Đúng ba tháng hè là chơi thoả thích… Ôi chơi
chơi… sao mà thú vị thế! Nhớ đến tiểu học
của con gái lại xót xa. Học quá nhiều để có
thành tích cho thầy cô, cho trường lớp… và con gái tôi
không bao giờ biết đến “chín mươi ngày vui suớng
ở đồng quê”.
Năm 1960 – 1967
Đậu tiểu học xong tôi thi hai trường
Marie Curie và Gia Long. Lẽ ra phải thi Trưng Vương
mới đúng nhưng không biết sao cha tôi quyết định
vậy. Những ngày đầu đi học Gia Long xúng xính
đầm. Lư do cha định cho học Marie Curie nhưng
phút chót lại chuyển
sang Gia Long. Số tôi lại hên. Cô Bắc kỳ lạc lơng
giữa rừng nữ sinh Nam kỳ mà không hề bị
chia rẽ hay kỳ thị. Như ngày xưa, nguời dân
Saigon đă cưu mang gia đ́nh tôi ở Cây Quéo. Từ thầy
cô đến bạn bè, chẳng ai thắc mắc v́ sao tôi
mặc đầm.
Tôi học sinh ngữ Pháp văn. Trường có bảy
lớp Anh và bảy lớp Pháp. Tôi học đệ Thất
14, lớp chót. Những năm đầu trung học tôi
đi xe đưa rước của trường. Thế
là hết những ngày chân sáo, hết những ngày đuổi
bướm bắt hoa. Chỉ c̣n ngồi trong xe hiệu
đoàn ngắm phố phường qua khung cửa sổ.
Xe trường đưa các nữ sinh lớp sáng về
nhà và trên đường đi rước các nữ sinh lớp
chiều. Trong khi chờ đợi xe đến đón, tôi
thường cột áo dài và trèo lên cây trứng cá trước
nhà để hái trái nhâm nhi ăn chơi hay đem vào lớp
cho bạn. Nghe tiếng c̣i xe ngoài đường th́ tụt
xuống xách cặp chạy ào ra. Nhà xa nên tôi bị đón sớm
và về muộn. Bây giờ nhớ lại thuở cột
áo leo cây thấy vui vui… Hay khi vào trường cũng cột
tà áo để nhảy ḷ c̣. Trường Gia Long rất
đẹp! Trường thật đồ sộ, bốn
phía là bốn con đường. Ngày ấy chính phủ
đặt tên đường có chủ đích rơ ràng. Đặt
theo từng vùng các danh nhân văn vơ, không đặt lộn
xộn lung tung. Gia Long của tôi đă được bao
quanh bởi các danh nhân văn chương như Bà Huyện
Thanh Quan, Phan Thanh Giản, Đoàn Thị Điểm và Ngô
Thời Nhiệm. Chính giữa trường là con đường
tráng nhựa thật đẹp và chúng tôi hay gọi đùa
là đường Bonard. Giờ ra chơi các nữ sinh dắt
tay nhau thơ thẩn trên con đường ấy trông thật
dễ thương. Rồi gia đ́nh tôi chuyển
sang Vạn Kiếp. Trước nhà có một bụi tre và
đối diện là khoảng vườn mênh mông của
chủ đất với những cây cau thẳng tắp .
Năm 1960 có nghe tin về “Mặt Trận Giải Phóng”…
ǵ đó nhưng tôi chẳng quan tâm. Thứ nhất c̣n bé phải
lo học, thứ hai mọi cái lúc bấy giờ đă
được chính phủ đưa dần vào nền nếp,
và chiến tranh c̣n xa lắm. Đó là thời điểm cực
thịnh của nền Đệ Nhất Cộng Hoà. Ngày
đó chưa có truyền h́nh, mới chỉ có truyền
thanh. Chương tŕnh khá phong phú. Tôi thích vừa làm toán vừa
nghe nhạc. Cũng có chương tŕnh “tuyển lựa ca
sỹ” hàng tuần, nhưng phải nói đa số hát dở
chứ không như các cuộc thi bây giờ, thí sinh hát khá vững.
Báo chí nở rộ. Ai có tiền th́ ra báo. Không cần phải
là người của cơ quan chính quyền như bây giờ.
Tôi mê xem báo. Tôi đói tin tức. Ngày đó có vụ thuê báo.
Các em bán báo lẻ hay quầy bán báo nếu bán không hết
th́ cuối ngày trả lại toà soạn. V́ thế một
số quầy báo có sáng kiến cho thuê báo. Người
đọc thuê và trả tiền chỉ chừng phân nửa.
Tất nhiên tiền đó chui vô túi chủ quầy báo và
người bị thiệt hại là chủ nhân tờ báo.
Gia đ́nh tôi chỉ mua một tờ và trao đổi với
nhà cậu tôi chứ không thuê. Coi như tốn tiền một
mà được xem hai báo.
Báo thiếu nhi hơi ít . Báo chí đối lập
được tự do hoạt động. Do đó có ǵ xấu
xa của chế độ hay chính quyền th́ những tờ
báo đó vạch ra ngay. C̣n những tờ thân chính phủ
th́ bị báo chí đối lập gọi là nâng bi. Sách th́ rất
nhiều. Đủ các loại. Mỗi nhà xuất bản
có nét đặc thù riêng. Như nói đến Lá Bối là biết
ngay các loại sách về Thiền, Phật.
Văn thi sỹ nở rộ. Tất nhiên cũng chia làm
nhiều loại. Có những văn sỹ chuyên viết tiểu thuyết
tâm lư xă hội và được các bà nội trợ b́nh dân
hay các tiểu thương ái mộ như bà Tùng Long. Có những
nữ văn sỹ viết khá bạo như Nguyễn Thị
Hoàng với cuốn truyện nổi đ́nh đám Ṿng tay học
tṛ . Nội dung truyện kể về chuyện
t́nh của một cô giáo với học tṛ bằng một
giọng văn khó hiểu. (theo thiển ư cá nhân tôi !) Có những
văn sỹ miền Bắc viết chuyện
trong thời gian họ đi kháng chiến chống Pháp rất
hay như Doăn Quốc Sỹ. Thời ấy thi sỹ cũng
nhiều. Nào Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Du Tử
Lê, Nguyên Sa, Hà Huyền Chi, Hoàng Anh Tuấn, Mường Mán…
Thơ văn Sài G̣n hồi ấy như trăm hoa
đua nở. Đủ loại và tự do sáng tác theo cảm
hứng, không phải viết theo một khuôn mẫu nào, do
đó rất phong phú. Nhưng tôi lại thích đọc sách
phóng tác hay dịch!( v́ chưa đủ tŕnh độ
đọc nguyên tác) Mỗi lần hè về là tôi mê mẩn
ngốn hàng tá truyện. Vật giá có lên nhưng chỉ chút
đỉnh. Cũng chỉ ḿnh cha đi làm c̣n mẹ ở
nhà chăm lo con cái. Thuở tiểu học th́ mẹ tôi kèm
tất cả các môn. Lên Trung học th́ bà không dạy
được các môn khoa học nhưng Pháp văn th́ vẫn
tiếp tục cho đến tú tài v́ ngày xưa mẹ tôi có
bằng Certificat ǵ đó.
Cuộc sống vẫn êm đềm và khá thanh b́nh.
Nhưng từ năm 61 th́ không c̣n nữa. Đường
đi thuờng xuyên bị đắp mô. Quốc lộ th́
ít và tỉnh lộ th́ nhiều hơn. Địa
phương quân mỗi sáng sớm phải đi phá mô. Xong
xuôi th́ dân chúng mới dám đi lại. Đă có những mô nổ
tung và cả chuyến xe
đ̣ tan tác. Rồi những năm sau là những lần nổ
ở vũ truờng nơi quân Mỹ thuờng lui tới.
Tất nhiên dân thường cũng vạ lây.
Tôi vẫn ngoan ngoăn với sách đèn. Chẳng hề
giao du bạn trai v́ cha mẹ cấm. Ngày ấy Gia Long và
Trưng Vương là hai trường nữ nổi tiếng
nhất. Hàng năm chỉ có một kỳ thi chọn học
sinh giỏi là Trung Học Toàn Quốc. Lẽ đĩ nhiên
số đậu rơi vào bốn truờng lớn. C̣n Lễ
Hai Bà Trưng hàng năm được tổ chức khá lớn
và hai nguời đẹp của Gia Long, Trưng
Vương được đóng vai Hai Bà ngồi voi diễn
hành (bây giờ ở VN dùng từ diễu hành? Tôi không hiểu
v́ sao lại diễu hành thay cho diễn hành?)
Đề thi của mỗi môn cũng vẫn do Giáo
sư môn đó phụ trách. Tôi thấy như vậy mà hay.
Chẳng có ǵ lộn xộn xảy ra v́ thời ấy không
có nạn cha mẹ hối lộ Thầy cô. Măi năm tôi học
đệ nhất th́ thi chung toàn khối và đă có rắc
rối. Chẳng hạn đề thi triết đệ
nhất lục cá nguyệt là của cô Lan dạy chúng tôi
th́ lớp chúng tôi làm được c̣n các lớp khác th́
không. Hồi đó bậc Trung Học chúng tôi phải thi tổng
cộng: Trung Học (hết lớp đệ tứ) Tú tài
1 (hết lớp đệ nhị) và Tú tài 2 (hết lớp
đệ nhất). Nhiều bạn sau khi có bằng Trung Học
th́ đi làm. Có thể chọn nghề thư kư. Sau Tú tài một,
rụng bớt một số bạn. Sau Tú hai rụng một
số. Số học giỏi và có điều kiện th́ tiếp
tục con đường đại học.
Đề thi đại học do các trường tự
phụ trách. Ngày thi lệch nhau. Trường nào cũng công
bố danh sách thi đậu chính thức và dự bị. Do
đó tôi cảm thấy rất trật tự nề nếp
chứ không lộn xộn như bây giờ. Nếu gọi
danh sách chính thức mà thiếu th́ truờng gọi đến
dự bị. Đơn giản vậy thôi. Nhưng có lẽ
hồi đó vấn đề hối lộ, bán đề
thi không kinh khủng để đến nỗi Bộ Giáo
Dục phải xen vào ra đề chung như bây giờ. Lại
cũng do vấn đề tiền lương. Khi đồng
lương không đủ sống th́ tư cách con người
suy giảm.
Đường phố Saigon của những năm 63 vẫn
c̣n xe Mobylette và dễ thương ngộ nghĩnh là Velo
solex. Chiếc xe xinh xắn nhưng có cái bầu to phía
trước. Nữ sinh thường đi xe này. Khi chạy
xe, tà áo dài phía sau phồng lên trông rất vui. Nhưng đa
số học sinh vẫn đi xe đạp. Số xe máy rất
ít. Và v́ thế đuờng phố Saigon vẫn khá thênh
thang. Năm đệ tam th́ tôi không đi xe đưa
rước nữa mà chuyển
qua xe đạp. Cũng khá xa mà sao hồi đó chúng tôi
không thấy ǵ. Chả như bây giờ sân trường cứ
tràn ngập xe máy mà lại c̣n xe phân khối lớn.
Năm tôi học đệ tứ th́ xẩy ra vụ Phật
Giáo. Sau đó nền Đệ nhất Cộng Hoà sụp
đổ. Tôi không ghét ông Diệm nhưng tôi ghét bà Nhu. V́
tính t́nh xấc xược của bà. Nhưng phải nói hồi
đó với tôi, xă hội tương đối ổn
định, trật tự nề nếp. Dù ông Nhu có lập
Đảng Cần Lao nhưng không ép buộc lộ liễu.
Họ cũng gợi ư nhưng không vào th́ thôi. Cũng chẳng
v́ thế mà bị “đ́” sói trán. Hay trong ngành giáo dục của
cha tôi, người ta không trắng trợn? Tôi chỉ biết
nếu học giỏi là được học bổng,
không bị phân chia lư lịch ǵ cả.
Sau 63, các trường có Ban Đại diện. Ngày
đó tôi không chú ư lắm các thành phần ứng cử.
Nhưng sau này, các anh chị lớn nói rằng, học sinh
sinh viên giỏi thường bù đầu với việc học,
ít tham gia các hoạt động trên. Do đó VC cài nguời
vào nằm vùng ở hầu hết Ban đại diện
các trường. Họ được huấn luyện kỹ
nên ăn nói hoạt bát. C̣n học sinh giỏi th́ không có thời
gian luyện khoa ăn nói. Sài G̣n của tôi sau những
ngày đấu tranh sôi nổi, sau những biểu t́nh, sau vụ
tự thiêu của Hoà Thượng Thích Quảng Đức
..lại êm ả trở lại. Nhưng không như xưa
v́ liên tiếp các đột biến về chính trị. Cuộc
chỉnh lư của Tuớng Nguyễn Khánh rồi chẳng
bao lâu đến phiên của Tướng Thiệu và Tướng
Kỳ.
Tôi chỉ biết học và không chú ư đến những
việc khác. Liên tiếp hai năm thi tú tài một và hai
đă ngốn tất cả quỹ thời gian. Nhưng tôi
chỉ nhớ Tú tài một, chuơng tŕnh đă bị cắt
giảm v́ chiến tranh. Cũng từ năm 1965, quân Mỹ
đổ vào đông và đă gây xáo trộn. Lính Mỹ lấy
vợ Việt. Đa số là các cô gái nhảy, thời
đó gọi là cave hay cả các cô xuất thân là nguời
giúp việc. Me Mỹ là tên dân chúng gọi cho những cô này.
Nội cái tên gọi đă nói lên sự khinh rẻ của
dân chúng dành cho những cô gái ấy. Nghĩ cũng đáng
thương. Nhưng cũng chính những đồng
đô la mà các cô me Mỹ tiêu vô tội vạ đă làm vật
giá Sài G̣n tăng cao. Người làm của chúng tôi lấy Mỹ
và đổi đời.
Cuộc sống của giới trung lưu như giáo
sư bắt đầu lao đao. Giáo sư nào dạy
tư thêm th́ c̣n đỡ. Gia đ́nh tôi hạn chế mọi
chi tiêu v́ cha không dạy tư và yêu cầu mẹ phải ở
nhà chăm sóc việc học của các con. Ai có thời gian
để gửi thư t́nh tự. Ai có lúc lang thang quán
ăn hàng. C̣n tôi th́ không. Cắm đầu cắm cổ học.
Đi học là về nhà ngay. Ngày đó chúng tôi, gồm chị
tôi và tôi đều học Gia Long nên không có vụ bạn
trai nào dám đến nhà. Chúng tôi cũng chẳng học
tư nhiều. Mà học tư vào những năm thi th́ cũng
né con trai tối đa. Lệnh cha mẹ phải chấp
hành nghiêm chỉnh. Thậm chí sau này chị tôi học dược
cũng vẫn không hề có một tên “ masculin” nào dám đến
nhà! Tôi thích con gái đi học bằng xe đạp và nón lá
nghiêng nghiêng . Từng ṿng xe quay chầm chậm nhỏ bé.
Áo dài ngày đó mặc rất kín đáo. Chúng tôi bắt buộc
phải có áo lá bên trong. Và các bà giám thị luôn coi chừng nhắc
nhở những nàng mặc áo quá chít eo, những nàng khua giày
cao lộp cộp. Chúng tôi đi sandalh. Rất dễ
thuơng. Tôi không thích học tṛ quá điệu. Áo thật
eo hay guốc cao. Mà thật kỳ. Đa số mấy cô
điệu thường học kém và có bồ sớm. Các
cô giỏi th́ nguợc lại. Nhưng cũng có cá biệt.
Tôi c̣n nhớ ngày đó cô bạn ban B, Kim Dung
rất xinh học giỏi được chọn làm Tây Thi
trong vở kịch cuối năm chẳng điệu ǵ cả.
Riêng lớp tôi th́ chỉ có vài chị điệu và tất
nhiên học dở, có bồ sớm.
Năm tôi thi tú tài, chỉ c̣n viết và bỏ vấn
đáp. Chứ truớc kia, một số môn phải thi viết
và vấn đáp (c̣n gọi là oral).Tôi đậu tú tài cao và
đuợc trường thuởng hai chữ Gia Long quyện
vào nhau bằng vàng 18. Những năm sau, truờng đổi
lại là hoa mai vàng. Đó cũng là phù hiệu của Gia
Long. Tôi mê Y khoa và ghét duợc! Tôi thích là bác sỹ để
chữa bịnh cho trẻ em và tự nhủ sẽ chữa
miễn phí cho em nào mắc bệnh sài uốn ván. Tất cả
chỉ v́ tôi mất một đứa em trai v́ bệnh này.
C̣n Dược khoa, chẳng hiểu sao tôi ghét nữa. Tôi
nói rằng học dược, ra bán thuốc ngồi đếm
từng đồng xu leng keng! Chính v́ thế sau này có một
dược sỹ đại uư theo, tôi đặt tên anh ta
là “đại uư leng keng”! Nhưng nghề chọn nguời
chứ nguời không chọn đuợc nghề. Tôi thi rớt
dù học giỏi. Năm đó đề thi y khoa bắt
đầu có câu hỏi tổng quát, hỏi về những
kiến thức xă hội chung quanh. Tôi học chăm quá nên
vào pḥng thi bị đuối sức, quỵ ngă .
Năm 1967-1971
Tôi ghi danh Khoa Học, Chứng chỉ Lư Hoá Vạn Vật
tức SPCN (Science-Physic- Chimie-Naturel) . Nơi đây quy tụ
nhiều nguời đẹp nhất Khoa học v́ sinh viên
xuất thân ban A. C̣n chứng chỉ MGB hay MGP th́ ít con gái
hơn..
Chương tŕnh học khá nặng. Buổi sáng thực
tập đủ năm môn và chiều học lư thuyết. Tôi thích thưc tập thực
vật hơn các môn kia. Cắt ngang hoa dâm bụt hay lá ǵ
đó xem đuợc cấu trúc của nó duới kinh hiển
vi rất đẹp. Tôi không thích thực tập địa
chất. Toàn những mẩu đá vô tri giác. Tôi cũng không
thích lư với những bài dây điện loằng ngoằng.Thực
tâp động vật tuy sợ nhưng cũng thích. Mổ
con vật ra và xem cơ thể bên trong rất thú vị.
Chính ở đây là những mảnh t́nh trong sân trường
đai học. V́ có cơ hội tiếp xúc bạn trai. Chứ
những ngày Gia Long hết đi xe hiệu đoàn đến
xe đạp và mê học quá chừng đâu chú ư ai.
Năm đầu tiên đại học tôi chứng kiến
tết Mậu Thân. Sáng sớm nghe nổ mà ngỡ tiếng
pháo. Khi nghe tin Sài G̣n bị tấn công, tôi bàng hoàng. Trời,
thủ đô? Mấy ngày sau từ nhà nhìn về phía G̣
Vấp thấy trực thăng thả rocket từng chùm. Lần
đâu tiên cô bé nữ sinh chứng kiến tận mắt
chiến tranh dù chỉ là một phần nhỏ. Thực ra
truớc đó những lần các quán bar bị đặt
ḿn nổ, xác nguời tung toé. Sau những ngày kinh hoàng, Sài
G̣n của tôi lại như cũ.
Ngày đó chúng tôi đi học mặc áo dài. Thỉnh thoảng
có cô mặc đầm và không ai mặc tây cả..Nên sân truờng
đại học tung bay bao tà áo muôn mầu sắc. Cha mẹ
khó nên tôi vẫn đơn giản áo trắng và ôm cặp
như thuở Gia Long. Thỉnh thoảng mới áo mầu.
V́ vậy khi tôi mặc áo dài mầu, các bạn thấy lạ.
Chiều thứ bẩy, tôi thường cùng cô bạn lang
thang Sài G̣n để ăn hàng và ngắm phố phuờng.
Hồi đó có lẽ không khí chưa ô nhiễm nên con gái Sài
G̣n tuổi muời bốn, hai mươi trông rất đẹp.
Đẹp tự nhiên ở đôi mắt đen láy, nước
da đỏ hồng. Có cô má đỏ au như con gái Đà
Lạt .Tôi thích nguời đẹp nên hay ngắm con gái Sài
G̣n trên hè phố. Tuổi học tṛ thích nhất là lang
thang phố phuờng và ăn hàng. Đi học cũng thích
thầy bịnh để đuợc nghỉ rồi rủ
nhau ra quán tán dóc. Thật ra bọn con gái chúng tôi siêng năng
đi học nên thích vậy chứ một số ông con trai
rất ít đến giảng đường. Mấy ông
đó chỉ đi thực tập v́ có điểm danh. Vả
lại không đi th́ sẽ không biết làm. C̣n lư thuyết th́ lâu lâu đáo vô một chút.
Cuối năm bắt đầu ngồi tụng. Tất
nhiên cour đâu bằng bài giảng của Thầy. Thế
là các ông tướng này đi theo năn nỉ mấy cô
như tôi cho mượn tập!
Đời sống đắt đỏ, vật giá leo
thang hoài. Chiến tranh cũng vậy. Quay trái, quay phải,
sau lưng, truớc mặt, đâu cũng có nguời đi
lính và chết. Có năm sinh viên phản đối chính quyền,
đă vô xé bài không cho chúng tôi thi. Sau này, điểm danh lại
th́ trời ơi ..mấy tay kích động, phá hoại
đó toàn là dân nằm vùng. Tôi bắt đầu gửi bài
đăng báo năm đệ tứ. Đăng và dấu
nhẹm, không dám cho gia đ́nh biết. Hai năm sau th́ bận
hai kỳ thi tú tài nên ngưng. Khi lên năm thứ hai
đại học th́ tôi lai rai viết lại. Thuở
đó báo có số phát hành nhiều nhất là tờ Chính Luận.
Thiên hạ đổ xô đăng quảng cáo ở đây
rất nhiều. Báo có mục Chuyện
Phiếm. Nội dung là viết linh tinh đủ vấn
đề nhưng khuynh huớng
là chỉ trích những việc …đáng bị chỉ trích.
Tôi lấy bút hiệu Quỳnh Couteau. Tôi c̣n nhớ có mấy
cây bút sinh viên của mục này: Quỳnh Couteau của Khoa học,
Thảo gàn của Nha khoa, Thu hippy dường như văn
khoa.
Tôi viết truyện t́nh cho báo Tiếng Vang. Tôi có thói quen
mua từng ram giấy pelure đủ mầu và viết bài trên
đó. Tương đối tôi viết khá dễ dàng.
Đặt bút là viết. Hiếm khi sửa lại hay bôi
xoá. Để bài ḿnh đuợc đăng nhiều và liên
tiếp, tôi lấy khá nhiều bút hiệu. Nhưng tôi biết
nhà văn Thanh Nam, nguời phụ trách trang đó biết là
cùng một người .V́ cùng một nét chữ, cùng cách sử
dụng giấy pelure hồng, vàng. Tiếng Vang gửi nhuận
bút 500/bài, Chính Luận th́ cao hơn 800/bài. Sau này tôi lai rai nhảy
qua Sóng Thần của Chu Tử…
Tôi nhớ duờng như sau một năm tôi có bật
mí trong một truyện, các bút hiệu 1,2,3,4 …đều chỉ
là một nguời! Có điều vui là các độc giả
cũng ái mộ, gửi thư đến toà soạn xin làm
quen. Vui hơn nữa là khi tôi đến toà soạn lănh nhuận
bút gặp Hồng Vân, cô con gái chủ nhiệm Quốc
Phong. Cô này lúc đó thay thế nhà văn Thanh Nam phụ trách
trang Truyện t́nh của bạn. Không biết sao chỉ gặp
lần đầu, nh́n xa xa mà cô rất thích tôi. Hôm sau xuất
hiện trên báo gịng nhắn tin của cô “ PQ, hôm qua PQ đến
mà chị không dám ra nói chuyện
v́ đang đau mắt. Nhưng thấy PQ xinh quá , giọng
bắc thật dễ thưong.” Giời ạ, sau ḍng nhắn
của cô th́ thơ của độc giả ái mộ gửi
đến quá xá luôn. Tất nhiên tôi vẫn dấu nhẹm
mọi nguời trong gia đ́nh. Nếu không, bố tôi cho
ăn chổi chà về tội không học, lo viết chuyện đăng báo! Thực ra tôi vẫn
chăm học. Viết truyện t́nh ngắn với tôi dễ
ẹt! Chỉ mất chừng một giờ mà lại có
500 hay 800 để đăi bạn bè ăn hàng th́ cũng thú
vị. Tiếc là sau này Tiếng Vang tự đ́nh bản
và tôi quay qua viết cho Sóng Thần hay Dân Luận.
Hồi đó sinh viên chúng tôi hay ra thư viện để
học. Thư viện khoa học th́ nhỏ, muốn có chỗ
phải đi sớm. Chỉ có môt điều tiện là
ngay trong truờng th́ sau đó vô giảng đường,
không mất thời gian di chuyển.
C̣n thư viện đẹp là của ĐH Vạn Hạnh
nhưng tôi ít đến v́ xa nhà. Hai thư viện gần
là TV Văn hoá Đức và Hội Việt Mỹ.Thư viện
Văn hoá Đức nằm trên đường Phan Đ́nh
Phùng. Nhỏ thôi. Có máy lạnh. Nhưng tệ hại là
không có nguời giữ xe. Xe cứ khoá để trong sân.
Thư viện lại ở trên lầu. Và tại đây,
tôi có những kỷ niệm vừa vui vừa buồn. Những
kỷ niệm nho nhỏ.
Thư viện bé nên chỉ một thời gian, những
sinh viên hay lui tới đều biết mặt nhau. Tôi c̣n
nhớ có một sinh viên già nhất, rất lập dị.
Anh để hàm râu dài và xồm xoàm. Nghe nói anh đang học
Luật. Gặp tôi vài lần ở cầu thang, mỉm cuời
với nhau và thế là quen. Có lần tôi ngồi học và
có cảm tuởng.Tôi nh́n sang thấy anh ở bên kia và
đang vẽ kư họa tôi. Khi ra về, anh đưa và hỏi
“ Hôm nay anh thấy em dễ thưong lắm. Em đă lấy
mất một buổi học của anh. V́ .. vẽ em
..”. Có khi anh bảo tôi “ Khi nào em lấy chồng, nhớ
báo anh nhé ” “Anh sẽ mừng ǵ ?” “ Một tạ muối” “
Kỳ vậy”” “ Cho t́nh nghĩa vợ chồng của em
đậm đà như muối.”
T, bạn cùng Khoa học cũng hay đến đây.T
đến v́ tôi chứ không v́ thư viện v́ nhà T xa. Lắm
lúc cũng chẳng học, vẽ lăng quăng hay viết
lăng quăng mấy câu nho nhỏ ǵ đó cho tôi. Rồi
tôi bị mất xe ở đây. Hôm đó tự nhiên thấy
nguời rất khoẻ và sáng suốt. Tôi say mê học.
Thư viện về hết, chỉ c̣n ḿnh tôi. Khi xuống
th́ chẳng thấy Honda , chiếc Honda mới toanh do gia
đinh mới mua, giá 72. 000 đ ( lương giáo sư lúc
đó 23.000) . Tôi hoảng hốt xuống pḥng duới của
bảo vệ, hỏi rất ngây thơ :
-Bác thấy xe cháu đâu không?
Bác cuời:
- Không, chắc lại bị ăn cắp rồi!
Tôi tái mặt. Bác nói tôi đi khai báo. Tôi đi bộ
đến bót cảnh sát trên đường Mạc Đĩnh
Chi gần đó. Lăo cảnh sát thấy ghét. Lăo ghi chép xong lời
khai rồi cười cuời:
-Thế cô có biết ai lấy xe cô không?!
Tôi đi bộ từ đó về nhà ở Gia Định.
Thấy con đi về, không có xe, cha mẹ hỏi. Mếu
máo. Bố mắng tơi bời. Mẹ th́ không. Tôi nằm
trên gác khóc suốt. Sao nguời ta ác thế, sao ăn cắp
xe của tôi, khoá rồi mà. Ngày đó tôi ngây thơ và gà tồ
kinh khủng. Không thấy tôi đi học hay đến
thư viện VH Đức, T t́m đến nhà. Thấy mắt
sưng, T hỏi. Rồi th́ T “ Tôi sẽ đi hỏi cho
LC.Tôi quen tên đầu đảng , trùm ăn cắp xe ở
vùng ..” Tôi tṛn mắt. T, anh chàng đẹp giai, thông minh,
đàn hay, vẽ gỉoi quen trùm du đăng! Thấy tôi tṛn mắt,
T chỉ cuời. Hôm sau T quay lại “Bạn tôi không t́m
được v́ không phải vùng nó kiểm soát. Tụi nó
ră xe nhanh lắm”
Tôi nghỉ học mấy bữa. T lại t́m đến
:
- LC à, LC lấy xe PC của tôi đi học đi. Tôi c̣n
cái Mini Vespa mà.
Tôi đỏ mặt. T là vậy. Muốn
nói ǵ là nói. Chẳng ngán ai.
C̣n Hội Việt Mỹ th́ thư viện to, đẹp.
Đa phần tôi viết truyện t́nh đăng báo ở
đây! Nhớ lại cũng vui. Khi báo đăng, tôi cắt
và đem vào truờng cho bạn xem. Bạn gái xem th́ ít (nhỏ
Mai không có tâm hồn văn chuơng )
nhưng T xem th́ nhiều. Có khi ngang đến độ bỏ
giờ học, ngồi ở thềm của lớp để
xem truyện cuả tôi! Bởi thế mấy chục
năm sau, có người nghi ngờ, đoán rằng T, bạn
ông ấy cũng chính là T ngày xưa của Khoa học,
đă mét T. T t́m đọc và đă nhận ra văn phong của
tôi . “Văn LC lúc nào cũng vậy. Vẫn
rất nhẹ nhàng , thơ mộng”.Văn
vẫn vậy nhưng cuộc đời th́ không vậy,
bao nổi trôi sóng gió cho cô nhỏ đuợc một số
ông ở khoa học gọi là “nguời có đôi mắt
đẹp nhất pḥng Hoá”!
T́nh h́nh chiến sự ngày một leo thang. Tôi nhớ những
sự kiện đăc biệt như:
- Vụ đầu cơ gạo của thương buôn
Tàu và Tuớng Kỳ đă “chơi ngon”, ra lịnh xử
tử Tạ Vinh. Ông tuớng này thuộc loại vơ biền,
ruột để ngoài da, phát biểu như cao bồi
Texas. Chẳng cần biết sau này Tạ Vinh có bị xử
tử thật hay không nhưng lập tức vụ gạo
đuợc ổn định.
- Năm nào đó tôi tẩy chay không đi bầu khi
Tướng Thiệu độc cử
Vật giá ngày leo thang luôn. Th́ như đă nói, quân Mỹ xài
phung phí, “me Mỹ” xài vung vít. Chỉ c̣n giới
trung lưu như giáo chức là khốn đốn. Tôi vẫn sống trong tháp ngà. Chiến
tranh có làm suy tư th́ chỉ trong phút chốc. Việc học cuốn hút. Và những ngày thứ
bảy cuối tuần vẫn vi vút dạo phố Sài G̣n
ăn quà . Tuổi học tṛ thích nhất
là ăn hàng. Tiền bố phát hàng tuần
eo hẹp lắm v́ nhà giáo mà. Nên tôi đă
bổ sung ngân quỹ ăn hàng bằng các bài viết cho Tiếng
Vang, Sống, Chính luận.
Thời
tiết Sài G̣n ngày ấy không như bây giờ. V́ tôi nhớ
đi học phải mặc áo dài suốt ngày. Nhà xa,
sáng học thực tập, trưa ở lại và chiều
học lư thuyết. Có lẽ
ảnh hưởng thời tiết chung
toàn thế giới và cũng v́ Sài G̣n không qúa đông như
bây giờ? Mấy cô bạn Gia Long cũ, bỏ đi làm từ
khi đậu tú tài th́ có cô vô Ngân hàng, lương rất
cao. Cô th́ làm cho hăng Pháp, lương coi như
khoảng một lượng vàng/ một tháng. Lưong chuẩn uư gần một lượng.
Quân nhân đuợc mua hàng rẻ gọi là quân
tiếp vụ. Đa số mua xong, đem ra ngoài bán lại
cho con buôn. Hồi đó có phong trào làm cho sở
Mỹ v́ lương rất cao. Thanh niên
sinh viên lai rai biểu t́nh. Cứ “biểu”, cảnh sát
biết hết ai là ham vui, ai là VC nằm vùng.Tôi chưa bao
giờ tham gia hay đi xem. V́ chăm học quá mà ? Nhưng đừng nghĩ rằng không
nghe tiếng đại bác trong tháp ngà! Vẫn
nghe đấy chứ. Cũng có những
niềm riêng khắc khoải. Nhưng mục tiêu phía truớc
phải đạt cho xong ..
Tôi ra
truờng năm 1971. Thân cư Mệnh nên suốt đời
tự lo. Họ hàng, cha mẹ không giúp dù quen biết
nhiều. Tôi viết bài “Ba lần văn bằng
cử nhân đi xin việc làm” đăng trên Chính Luận.
Nhà báo nói láo ăn tiền. Bi
thảm hoá thêm. Chàng Giám Đốc Nha Viện Trợ
trực thuộc Tổng Nha Kế Hoạch viết thư mời cô cử đến cộng
tác.
Thế là hết những
ngày lang thang sân truờng đại học.
Hết những ngày khúc khích với anh trên đường
Khắc Khoan, nghe lá me xanh reo trên tầng cao, hết những
chiều thứ bẩy cùng cô bạn thân ăn hàng chợ
Sài G̣n, hết những ngày trong giảng đường nhỏ
giờ Thầy Thới, nghe đuợc cả tiếng muỗi
vo ve, hết cả những giờ xem hai phe chống và
thích ruợt nhau trong sân truờng khoa học.
Tôi bắt
đầu vào đời. Từ ấy.
..
Sài G̣n của
tôi có những nét khác hơn của thuở học tṛ. Nhưng vẫn là Sài G̣n của
mưa nắng hai mùa, của áo lụa Hà Đông giữa
trưa hè nóng bỏng, của tiếng chuông chùa Xá Lợi
ngân nga. Của giáo đường nhà Thờ Đức Bà tung bay muôn mầu áo chiều chủ nhật.
Sài G̣n với áo dài tha thuớt. Áo Sài G̣n không biết
ngồi sau lưng Honda hai bên như bây giờ. Áo Sài G̣n
không biết phóng xe ào ào như bây giờ. Áo Sài G̣n không
cười hô hố trên đường phố như bây
giờ. Áo Sài G̣n không cong cớn như bây giờ…
Và tôi, bao năm tháng trôi qua, vẫn một niềm hoài vọng
về Sài G̣n ngày ấy. ..
Xin trả cho tôi nắng Sài G̣n
Thênh thang đường phố lụa Hà Đông
Xin trả cho tôi mưa ngày ấy
Và trả cho tôi cả cuộc t́nh ...
Hoàng Lan Chi